Câu chuyện
hội nhập đã được nhắc đến từ lâu, nhưng nó chưa bao giờ cũ. Chúng ta liệu đã sẵn
sàng cho việc hội nhập quốc tế. Khi mà trong bất cứ quan điểm nào của Đảng và
Nhà nước ta về mọi vấn đề liên quan đến kinh tế - xã hội nói chung đều nhấn mạnh
đến một điều: hội nhập quốc tế. Nhưng chúng ta hội nhập đến đâu và làm được gì
trong cái công cuộc hội nhập ấy. Nobi có đọc trên vài trang báo đưa lại quan điểm
của một ông nào đó rằng: Việt Nam ta đàm phán gia nhập các hiệp định thì rất giỏi,
nhưng chẳng làm gì nhiều cho cái hiệp định ấy nó thực sự tốt cho người dân. Là
bởi nền sản xuất của chúng ta thực sự chưa tốt, nếu không nói là quá yếu. Một
chủ đề đang được nêu ra, đó là chuyện Lào và Cam-pu-chia đang vượt chúng ta
trong một số tiêu chí, năng lực cạnh tranh chẳng hạn. Các vị quan chức của
chúng ta có lo không, giải quyết nó như thế nào. Khi mà nền kinh tế đang dần chững
lại.
Trong cuốn
Tại sao các quốc gia thất bại, hai tác giả D. Acemoglu và J.A. Robinson đã cho
rằng, một quốc gia kém phát triển, một nền
kinh tế yếu là do thể chế chính trị đang điều hành quốc gia đó. Và sự thật
đúng là như vậy.
Trở lại câu
chuyện năng suất lao động, nhiều người đã phản ứng khi các thống kê cho thấy
năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/15 Singapore, 1/5 Malaysia, 2/5 Thái
Lan. Nhưng dù có biện minh thế nào đi chăng nữa, chúng ta phải chấp nhận sự thật
ấy và tìm cách khắc phục nó. Nguyên nhân thì có nhiều, chúng ta sẽ đề cập đến
nó sau, nhưng phải đồng ý rằng, nguyên nhân chủ yếu là do thể chế điều hành đất
nước của chúng ta còn quá nhiều yếu kém.
Ví dụ,
trong ngành chăn nuôi chẳng hạn, tờ báo Cafebiz.vn đã dẫn ra rằng, năng suất của
nông dân Việt chỉ bằng 1/20 nông dân Hoa Kỳ. Tờ báo này đưa ra ví dụ: ở Hoa Kỳ
chỉ cần 1 người để nuôi 1000 con lợn, còn Việt Nam là 15 – 20 người. Rồi 1 người
Thái Lan có thể quản lý trang trại 20.000 con gà công nghiệp, còn ở nước ta 1
người chỉ có thể quản lý được 5000 con.
Hay như câu chuyện thương hiệu, ông Samir Dixit - Giám đốc
Vùng Châu Á – Thái Bình Dương của công ty định giá thương hiệu Brand Finance đã hỏi rằng khi mà Mỹ có Apple, Nhật
có Honda, Sony, Ý có Guuci…. Vậy Việt Nam có gì để thế giới biết đến ngoài tà
áo dài và chiếc nón bài thơ. Chúng ta có gì? Ngoài những thương hiệu như Trung
Nguyên, Vinamilk,… Cũng theo đánh giá của Brand Finance thì tổng giá trị thương
hiệu của top 50 thương hiệu Việt chưa bằng 1 nửa giá trị của 1 thương hiệu của
Malaysia.
Cái khẩu hiệu
"Người Việt dùng hàng Việt" có thể đem lại một chút tác động tích cực
đến những doanh nghiệp Việt Nam. Cũng là hàng nhái, tại sao ta cứ dùng hàng Tàu
làm gì, chúng ta cũng có ở Vĩnh Phúc cơ mà - ấy là thông tin mà một người bạn
làm bên quản lí thị trường của Nô cho biết vậy. Hay trở lại chuyện cái đèn pin
dạo trước, quả thật ở cái siêu thị ấy, lượng đèn pin Việt chỉ vài ba cái, quá
ít so với cả trăm cái đèn TQ được bày trên kệ hàng. Ấy là chưa kể, những hàng
tiêu dùng khác, Nô đi chợ chỉ chọn những cái nào made in Việt Nam mà thôi, dù
nhìn nó có kém hơn một tí. Nhưng một người mua thì có thể không ảnh hưởng nhiều
đến doành nghiệp, nhưng bạn thử tưởng tượng xem, con dân nước Việt hàng triệu
triệu người, ai cũng chỉ mua hàng Việt Nam sản xuất (dĩ nhiên trừ những cái mà
ta chưa làm được) thì kinh tế Việt sẽ vang xa đến tận đâu, không khéo lại làm
cho Singapore mơ giấc mơ Sài Gòn năm nào ấy chứ. Mà khi kinh tế ta mạnh, thì liệu
lão hàng xóm to xác có còn dám vác tàu vào biển của ta nữa hay không.
Đấy! Có thể
người ta sẽ gọi nó là hòa nhập chứ không hòa tan là ở chỗ ấy.
Nhưng người
làm kinh doanh không thể dựa vào việc khách hàng tự tìm đến được, mà là phải
làm sao để khách hàng tự tìm đến mình. Có rất nhiều doanh nghiệp trẻ người Việt
đã làm được điều ấy, và biết đâu mai này, Nô sẽ không còn ngồi viết linh tinh vớ
vẩn thế này nữa, mà đang bận rộn cái chuyện làm nên thương hiệu nào đó cho nước
Việt mình được rạng mặt nở mày ấy chứ.